Nhân dịp Giáng sinh sắp đến gần, hãy cùng tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa và những món đồ biểu tượng của ngày lễ này.
1. Nguồn gốc Giáng sinh
Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel, Christmas hay X-mas nhằm kỉ niệm ngày Chúa Jesus thành Nazareth sinh ra đời của phần lớn người Cơ Đốc Giáo.
Một số nước ăn mừng Giáng sinh vào ngày 25/12, ngoài ra có nước lại tổ chức vào tối ngày 24/12. Theo Công giáo Roma, lễ Giáng sinh chính thức là ngày 25/12, còn gọi là Lễ chính ngày. Lễ đêm 24/12 gọi là Lễ vọng. Dù vậy, lễ đêm 24/12 thường thu hút tín đồ tham dự nhiều hơn.
Chữ Christ là tước vị của Đức Jesus. Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (thánh lễ). Khi chữ Christ và Mas viết liền thành ra chữ Christmas, có nghĩa là ngày lễ của đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Jesus.
Trong nhiều thế kỉ, những nhà ghi chép Ki-tô giáo chấp nhận Giáng sinh là ngày Jesus được sinh ra đời. Tuy nhiên, đến đầu thế kỉ 18, các học giả bắt đầu đề xuất một cách giải thích khác. Isaac Newton cho rằng ngày Giáng sinh đã được lựa chọn để tương ứng với đông chí ở Bắc bán cầu, từng được đánh dấu là ngày 25/12.
Năm 1743, Paul Ernst Jablonski người Đức lập luận rằng Giáng sinh được xác định là ngày 25/12 để khớp với ngày Sol Invictus trong tôn giáo La Mã cổ. Ngoài ra trước người Ki-tô giáo, nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác cũng ăn mừng ngày lễ cuối tháng 12.
2. Ý nghĩa từ "Merry Christmas"
Dù các hoạt động tổ chức lễ Giáng sinh đã bắt đầu từ thế kỷ thứ IV công nguyên, nhưng chỉ đến năm 1699, cách nói Merry Christmas mới được sử dụng. Người sử dụng cụm từ đầu tiên này là một sĩ quan hải quân khi ông viết bức thư thân mật vào năm 1699. Cụm từ này xuất hiện lần thứ hai vào năm 1843 trong tác phẩm mang tên A Christmas Carol (Bài hát đón mừng lễ Giáng sinh) của Charles Dickens.
Trong dịp Giáng sinh, không chỉ có đạo Thiên Chúa mà hầu như tất cả mọi người ở các giai tầng hay tôn giáo khác nhau cũng đều gửi đến nhau lời chúc "Merry Christmas". Merry có nghĩa là niềm vui còn Christmas có nghĩa là các con chiên của Chúa (cách dùng trong tiếng Anh cổ). Nhiều người cũng sử dụng từ Happy thay cho Merry để chúc nhau trong dịp Giáng sinh. Cụm từ Happy Christmas trở nên phổ biến trên toàn thế giới vào thế kỷ XIX, khi nó được chính Nữ hoàng Anh Elizabeth II sử dụng.
Ngày nay, cách nói "Happy Christmas" chủ yếu được sử dụng bởi người Ireland và Anh. Đôi khi để rút gọn, nhiều người còn sử dụng từ "X-mas" thay cho "Christmas". Tuy nhiên phải khẳng định rằng, không cụm từ hay cách nói nào có thể phổ biến bằng "Merry Christmas" để chúc bạn bè, người thân có một mùa Giáng sinh vui vẻ và hạnh phúc.
3. Các biểu tượng của Giáng Sinh
Vòng lá mùa vọng
Vòng lá mùa vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh, thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này được khởi xướng bởi các tín hữu Giáo Hội Lutheran ở Đức vào thế kỉ 16 để nói lên sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối.
Vòng lá có hình tròn nói lên tính vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá ám chỉ hi vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. 4 cây nến bao gồm 3 cây màu tím là màu của mùa Vọng, cây thứ 4 màu hồng là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng (Gaudete Sunday).
Thiệp Giáng sinh
Bắt nguồn từ năm 1843 khi Henry Cole, một thương gia giàu có nước Anh, nhờ Horsley, một họa sĩ ở London, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên thế giới và sau đó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép người dân gửi thư đến bất kì nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.
Quà Giáng sinh
Quà Giáng sinh biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bè bạn. Đối với một số người, quà Giáng sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc, đó là lễ kỉ niệm ngày sinh của Chúa Jesus, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người.
Khi Chúa Jesus cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba nhà thông thái (hay nhà chiêm tinh, theo truyền thống cũng là ba vị vua) từ phương Đông đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng có ý nói Chúa Jesus là vua, nhũ hương để tuyên xưng Jesus là Thiên Chúa, và mộc dược tiên báo cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Jesus để cứu chuộc nhân loại.
Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Jesus hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.
Theo truyền thuyết xưa, ông già Noel thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông Giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc bít tất (vớ).
Hang đá và máng cỏ
Ngày nay, vào đêm 24/12 tại các giáo đường đều có hang đá với máng cỏ, bên trong có tượng Chúa Hài đồng, tượng Đức mẹ Maria, chung quanh có những con lừa, tượng Ba Vua, một số thiên thần, Thánh Joseph trên mái nhà có ánh sáng, chiếu từ một ngôi sao hướng dẫn ba vua tìm đến với Chúa. Mọi người đều hướng về Chúa nhân từ, cầu nguyện Chúa cứu rỗi cho nhân loại tránh khỏi chiến tranh, nghèo đói và bất hạnh.
Cây thông Noel
Cây thông Noel có nguồn gốc từ nước Ðức từ thế kỉ 16. Đây là loại cây sống ở khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn giữ được dáng vẻ mạnh mẽ, vững chãi và màu xanh vĩnh cửu. Dần dần hình ảnh của loài cây này xuất hiện thường xuyên hơn và được coi là trung tâm của lễ hội, nơi mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa xung quanh cây thông được trang trí công phu cả bên trong lẫn bên ngoài bằng hoa hồng, táo và giấy màu. Đến thế kỉ 19, cây thông Noel bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Anh. Những năm 1820, cây Noel được những người Ðức ở Pennsylvania mang sang nước Mỹ. Ngày nay, gần đến dịp Noel, người ta thường sắm một cây thông và trang trí lên đó những ngôi sao, những quả châu, dải kim tuyến lấp lánh, hoa... Cây thông được xem là biểu tượng của niềm hi vọng và sức sống mới trong lễ hội đón chào năm mới.
Quà tặng trong những chiếc bít tất
Tương truyền rằng, nhà kia có ba cô gái đến tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của 3 cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống lọt vào đúng các đôi bít tất mà các cô treo hông bên lò sưởi. Khỏi phải nói cũng biết rằng các cô vui mừng đến mức nào. Họ đã có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình.
Câu chuyện thần kì kia được lan truyền đi khắp nơi, ai ai cũng muốn mình trở thành người may mắn nên đều bắt chước ba cô gái treo bít tất bên lò sưởi để hi vọng nhận được quà.
Trẻ em hi vọng nhận được nhiều quà nhất. Mọi người trong nhà cũng nhân cơ hội này để tặng quà cho các em với mong muốn các em sẽ ngoan ngoãn và học giỏi. Từ đó có tục trẻ em treo bít tất bên cạnh lò sưởi để nhận quà như ước mơ từ ông già Noel.
Ngôi sao Giáng Sinh
Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt. Theo tương truyền, lúc Chúa vừa chào đời bỗng dưng xuất hiện một ngôi sao rực rỡ, ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran và Syria, có ba vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ. Từ đó, ba vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được thành Bethelem nơi Chúa ra đời. Ba vị này đích thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các vật phẩm như đã nói ở trên.
Từ đó ngôi sao trở thành biểu tượng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo ở chỗ trang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo để nhớ đến sự tích trên. Ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng Đế.
Ông già Noel
Nguồn gốc của từ “ông già Noel” (Santa Claus) hay thánh Nicholas bắt đầu ở Thổ Nhĩ Kì từ thế kỉ thứ IV. Từ lúc còn nhỏ, thánh đã là một người rất ngoan đạo và đã hiến cả cuộc đời của mình cho đạo Cơ Ðốc. Thánh Nicholas đặc biệt được ca tụng vì tình yêu đối với trẻ em và sự hào phóng của ngài. Ngài là người bảo trợ cho các thuỷ thủ, và tất nhiên ngài cũng là người bảo trợ của trẻ em. Vào thế kỉ thứ 16 ở Hà Lan, trẻ em thường đặt những chiếc giày gỗ của mình bên cạnh lò sưởi với hi vọng sẽ được thánh Nicholas thết đãi no nê.
Người Hà Lan phát âm từ St. Nicholas thành Sint Nicholaas, sau đó nói chệch thành Sinterklaas, và cuối cùng được những người theo giáo phái Anh đọc thành Santa Claus. Sau này, người ta đã hiện đại hóa hình tượng ông già Noel bằng hình ảnh một ông già to béo, vui tính trong bộ đồ màu đỏ.
Cây tầm gửi và cây ô rô
Hai trăm năm trước khi Chúa Jesus ra đời, người ngoại đạo dùng cây tầm gửi để kỉ niệm ngày Mùa Ðông đến. Họ thường hái loại cây kí gửi này và dùng nó để trang trí cho ngôi nhà của mình. Họ tin tưởng rằng loại cây này có một khả năng chữa trị đặc biệt đối với mọi loại bệnh tật, từ bệnh vô sinh của phụ nữ cho đến ngộ độc thức ăn. Những người dân ở bán đảo Scandinavia cũng coi cây tầm gửi là biểu tượng của hoà bình và sự hòa thuận. Họ còn đồng nhất hình tượng cây tầm gửi với nữ thần tình yêu của họ là thần Frigga. Phong tục hôn nhau dưới bóng cây tầm gửi có lẽ cũng xuất phát từ niềm tin này. Lúc đầu nhà thờ cấm sử dụng cây tầm gửi trong lễ Giáng sinh vì nguồn gốc ngoại đạo của nó, thay vào đó, các cha đạo đề nghị dùng cây ô rô làm loại cây dùng cho Lễ Giáng sinh.
Cây trạng nguyên
Cây trạng nguyên (poinsettias) được đặt theo tên của Joel Poinsett, đại sứ đầu tiên của Mỹ ở Mexico, người đã có công mang loại cây này về nước Mỹ vào năm 1882. Quê hương của cây trạng nguyên là ở Mexico. Vào thế kỉ 18, người Mexico coi cây trạng nguyên là biểu tượng của ngôi sao ở Bethlehem. Theo truyền thuyết, có một bé trai không có quà dâng lên Chúa Hài Đồng nên em đã mang đến máng cỏ một chùm lá cây. Bị các bạn cười chế nhạo, nhưng khi em đặt những cành lá dưới chân Chúa Hài Đồng thì những cành lá đó biến thành những bông hoa đỏ rực rỡ rất đẹp.
Chiếc gậy kẹo
Vào những năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của Lễ Giáng sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo. Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi kẹo thành hình một chiếc gậy kẹo.
Qua cây gậy kẹo, ông đã kết hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hi sinh của Chúa Jesus. Màu trắng biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của Chúa Jesus. Ba sọc nhỏ tượng trưng cho những đau đớn mà Ðức Chúa đã phải chịu trước khi ngài chết trên cây thập ác. Ngoài ra chúng còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà Chúa đã đổ cho loài người.
Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt cây gậy của người chăn cừu vì chúa Jesus chính là người chăn dắt con người. Nếu bạn lật ngược cây gậy, nó sẽ trở thành chữ J tượng trưng cho chữ cái đầu tiên của tên Chúa Jesus.
Bữa ăn reveillon
Tại Alsace, Pháp, bữa ăn này phải gồm có tam hành, gồm thủy (cá chép, con hàu), không khí (gà tây hay ngỗng) và mộc (thịt heo). Tập tục ăn gà tây do thủy thủ của nhà thám hiểm Christopher Columbus du nhập từ Mexico.
Bài hát Giáng sinh
Bài Jingle Bell do nhạc sĩ J. Pierpont sáng tác nhưng lại đặt vào chùm bài hát trong danh sách những bản nhạc dân ca nổi tiếng của Mỹ với tên gọi American Song Bag của nhà thơ Carl Sandburg. Bài này không phải sáng tác cho đêm Noel như người ta lầm tưởng.
Lời bài hát đậm tính dân dã mộc mạc, diễn tả tâm hồn của người dân Mỹ hướng đến một mùa tuyết rơi thật tốt lành. Hình ảnh ông Noel với túi quà đồ chơi, ngồi trên xe tuần lộc với tiếng chuông leng keng sinh động, làm cho người ta thích nghêu ngao hát theo, từ đó nó vô tình trở thành bài hát Giáng sinh.
Bài Silent Night, Holy Night có xuất xứ từ Đức với tựa đề Stille Natch, Heiligo Natch, do linh mục Joseph Mohr sáng tác khi cuộc chiến Đức - Áo - Phổ kết thúc. Sau này nó được phổ biến sang Áo, Mỹ... Nay đã được dịch ra gần 100 thứ tiếng.
Bánh Buche Noel
Tổ tiên người phương Tây thường nhóm củi trong nhà, họ tin rằng lửa càng kêu lách cách thì các thần dữ sẽ tránh xa. Ngày nay, tập tục này biến dần vì không mấy nhà còn ống khói. Thay vào đó, theo sáng kiến của một thợ làm bánh ở Pháp vào năm 1875, người ta làm chiếc bánh ngọt có hình cây củi để mọi người thưởng thức trong đêm Noel và lưu truyền cho đến nay.
Chuông Thánh Đường
Trong vài nền văn hóa Á Châu, tiếng chuông được dùng để báo hiệu cho quần chúng biết một biến cố hoan hỉ hay một sự kiện buồn vừa xảy đến. Sau khi Chúa Hài Đồng giáng sinh, tục lệ này được truyền đến cho những quốc gia Tây phương để rung lên chào mừng Chúa xuống trần. Tại nhiều nước, các chuông nhà thờ đồng loạt ngân vang vào lúc nửa đêm báo hiệu Chúa ra đời.
Nến Giáng Sinh
Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến trong đêm Giáng sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông trong mùa Giáng sinh. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà để tượng trưng cho Ngôi Sao ở làng Bethlehem.
Giáng sinh ở Việt Nam
Ngày nay, ở Việt Nam, dù không chính thức nhưng Giáng sinh dần dần được coi như một ngày lễ chung, thường được tổ chức vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12. Trong những ngày này, cây thông Noel được trang trí ở nhiều nơi bằng cây thật (thường là thông ba lá hoặc thông mã vĩ) hay thông nhân tạo làm bằng nhựa, không phải cây thông như ở các nước phương tây thường là họ Bách tán. Trên cây, người ta thường treo các đồ trang trí nhiều loại, chủ yếu gồm những cặp chuông, dây giả tuyết, những chiếc ủng, các gói quà tượng trưng và đèn trang trí giống như các nước phương Tây.
Lễ Giáng sinh ở Việt Nam là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhộn nhịp. Những đôi tình nhân âu yếm tặng quà cho nhau, trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của ông già Noel, gia đình bè bạn rủ nhau hội hè, yến tiệc, hát karaoke.